5
Bài ca của Đê-bô-ra
Trong ngày đó*Chương 5 Đây là một bài ca rất xưa và nhiều câu trong tiếng Hê-bơ-rơ rất khó hiểu. Đê-bô-ra và Ba-rác, con A-bi-nô-am, hát bài ca nầy:
 
“Các lãnh tụ hướng dẫn dân Ít-ra-en.
Dân chúng tình nguyện ra trậnDân chúng … ra trận Đây cũng có nghĩa “Khi các lãnh tụ hướng dẫn dân Ít-ra-en” hay “Khi những người để tóc dài trong Ít-ra-en.” Các binh sĩ thời xưa thường để tóc dài như là của dâng lên cho Thượng Đế..
Đáng chúc tụng Thượng Đế!
 
Hỡi các vua, hãy lắng tai.
Hỡi các quan quyền, hãy để ý!
Chính tôi sẽ hát cho CHÚA.
Tôi sẽ ca hát cho CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en.
 
Lạy CHÚA, khi Ngài từ Ê-đôm đến,
khi Ngài bước ra từ đất Ê-đôm,
đất liền rung chuyển, trời đổ mưa,
các đám mây nhỏ giọt nước.
Các núi rung chuyển trước mặt CHÚA,
là Thượng Đế của núi Si-nai,
trước mặt CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en!
 
Trong thời kỳ Sam-ga, con A-nátSam-ga, con A-nát Một quan án trong Ít-ra-en. Xem 3:31.,
trong thời kỳ Gia-ên,
các con đường chính vắng người.
Khách lữ hành đi con đường phụ.
Không có dũng sĩ nào trong Ít-ra-en
cả cho đến khi ta, Đê-bô-ra, chỗi dậy,
cho đến khi ta nổi lên làm mẹ của Ít-ra-en§cho đến khi … làm mẹ của Ít-ra-en Hay “cho đến khi ta, Đê-bô-ra, đến làm mẹ của Ít-ra-en” hoặc “cho đến khi ta lập ngươi, Đê-bô-ra, làm mẹ của Ít-ra-en.”.
 
Lúc đó họ đi theo các thần mới.
Vì thế các kẻ thù đánh nhau với chúng ta tại cửa thành chúng ta.
Không ai tìm được một cái thuẫn hay một cây giáo,
dù có đến bốn mươi ngàn người Ít-ra-en.
 
Lòng ta thuận với các cấp chỉ huy dân Ít-ra-en.
Họ vui lòng tình nguyện từ trong dân chúng.
Đáng ngợi khen CHÚA!
 
10 Nầy các người cỡi lừa
và ngồi trên yên bằng mền*yên bằng mền Nghĩa của cụm từ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ không rõ.,
các ngươi là những kẻ đang đi trên đường,
hãy lắng nghe đây!
11 Hãy lắng nghe tiếng kẻ ca hát nơi giếng nước.
Họ thuật lại những chiến thắng của CHÚA,
Những chiến thắng của các chiến sĩ của CHÚA trong Ít-ra-en.
Dân CHÚA đi xuống cổng thành.
 
12 Hỡi Đê-bô-ra, hãy thức dậy, thức dậy!
Hãy thức dậy, thức dậy, hát một bài.
Hỡi Ba-rác, hãy đứng lên!
Hãy đi bắt quân thù ngươi, hỡi con của A-bi-nô-am!
 
13 Rồi những kẻ bị bỏ lại
sẽ đi đến cùng các bậc lãnh tụ quan trọng.
Các dân CHÚA sẽ đi đến cùng ta với các dũng sĩ.
 
14 Họ từ Ép-ra-im trong vùng núi của dân A-ma-lécvùng núi của dân A-ma-léc Vùng định cư của chi tộc Ép-ra-im. đến.
Bên-gia-min ở trong đám những kẻ đi theo ngươi.
Các viên chỉ huy từ gia đình Ma-kiagia đình Ma-kia Gia đình nầy là một phần của chi tộc Ma-na-xe định cư phía Đông sông Giô-đanh. đến.
Và những vị lãnh tụ từ Xê-bu-lôn mà ra.
15 Các quan trưởng Y-xa-ca đi cùng với Đê-bô-ra.
Dân chúng Y-xa-ca trung thành với Ba-rác,
và đi theo người cho đến thung lũng.
 
Người Ru-bên suy nghĩ rất lâu về điều họ phải làm.
16 Tại sao các ngươi ở lại chuồng chiên?
Có phải để nghe nhạc đánh cho chiên của các ngươi không?
Người Ru-bên suy nghĩ rất lâu về điều họ phải làm.
17 Dân Ghi-lê-át§Ghi-lê-át Đây là vùng phía Đông sông Giô-đanh. ở về phía Đông sông Giô-đanh.
Hỡi dân Đan, sao các ngươi ở gần tàu bè?
Dân A-se ở gần bờ biển,
nơi các hải cảng an toàn.
 
18 Nhưng dân Xê-bu-lôn liều mạng,
cũng như dân Nép-ta-li trên chiến trường.
19 Các vua đến đánh nhau.
Lúc đó các vua Ca-na-an đánh nhau ở Ta-nát, gần nước Mê-ghi-đô.
Nhưng chúng không cướp được vàng hay tài sản của Ít-ra-en.
20 Các ngôi sao chiến đấu từ trên trời;
từ các lối đi của chúng,
chúng đánh Xi-xê-ra.
21 Sông Ki-sôn cuốn trôi những binh sĩ của Xi-xê-ra,
sông xưa đó, tức sông Ki-sôn.
Linh hồn ta ơi, hãy tiến lên lấy sức mạnh*Linh hồn ta … sức mạnh Hay “các con ngựa bạo dạn của Ngài hãy tiến lên.”!
22 Lúc bấy giờ tiếng vó ngựa rầm rập trên đất.
Những con ngựa oai hùng của Xi-xê-ra phi nhanh, phi nhanh.
 
23 Thiên sứ của CHÚA bảo,
‘Nguyền cho thành Mê-rốt bị nguyền rủa.
Hãy nguyền rủa cay độc dân cư nó,
vì chúng không đến giúp CHÚA.
Chúng không đánh lại kẻ thù hùng mạnh.’
24 Nguyền Gia-ên, vợ Hê-be người Kê-nít,
được phước hơn tất cả các đàn bà sống trong lều.
25 Xi-xê-ra xin nước,
nhưng Gia-ên cho hắn uống sữa.
Đựng trong chén cho xứng với quan quyền,
nàng đem sữa cho hắn.
26 Gia-ên với tay lấy cây cọc lều.
Tay phải nàng với lấy cái búa của người thợ.
Nàng đập Xi-xê-ra!
Nàng bửa đầu hắn ra!
Nàng bửa và xoi lủng đầu hắn!
27 Hắn ngã quỵ nơi chân Gia-ên.
Hắn ngã quỵ và nằm dài ra đó.
Hắn quỵ ngã nơi chân nàng.
Hắn té xuống.
Nơi Xi-xê-ra quỵ ngã, hắn té xuống tắt hơi!
 
28 Mẹ Xi-xê-ra trông qua cửa sổ,
nhìn qua bức màn và hỏi lớn,
‘Tại sao xe con đến chậm vậy?
Tại sao tiếng ngựa kéo xe Xi-xê-ra bị chậm trễ?’
 
29 Đứa tớ gái khôn ngoan nhất của bà trả lời,
và mẹ Xi-xê-ra nhủ thầm,
30 ‘Chắc hẳn họ đang cướp lột dân mà họ chiến thắng!
Chắc hẳn họ đang chia nhau các của cướp!
Mỗi binh sĩ được chia cho một hoặc hai thiếu nữ.
Chắc Xi-xê-ra đang lấy các miếng vải nhuộm cho mình.
Chắc họ đang lấy mấy miếng vải nhuộm,
vải thêu choàng vào cổ các binh sĩ chiến thắng!’
 
31 Lạy CHÚA xin hãy khiến các kẻ thù Ngài chết kiểu đó!
Nhưng xin cho những ai yêu mến Ngài mạnh mẽ như mặt trời mọc!”
 
Rồi xứ được hưởng thái bình trong bốn mươi năm.

*5:1: Chương 5 Đây là một bài ca rất xưa và nhiều câu trong tiếng Hê-bơ-rơ rất khó hiểu.

5:2: Dân chúng … ra trận Đây cũng có nghĩa “Khi các lãnh tụ hướng dẫn dân Ít-ra-en” hay “Khi những người để tóc dài trong Ít-ra-en.” Các binh sĩ thời xưa thường để tóc dài như là của dâng lên cho Thượng Đế.

5:6: Sam-ga, con A-nát Một quan án trong Ít-ra-en. Xem 3:31.

§5:7: cho đến khi … làm mẹ của Ít-ra-en Hay “cho đến khi ta, Đê-bô-ra, đến làm mẹ của Ít-ra-en” hoặc “cho đến khi ta lập ngươi, Đê-bô-ra, làm mẹ của Ít-ra-en.”

*5:10: yên bằng mền Nghĩa của cụm từ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ không rõ.

5:14: vùng núi của dân A-ma-léc Vùng định cư của chi tộc Ép-ra-im.

5:14: gia đình Ma-kia Gia đình nầy là một phần của chi tộc Ma-na-xe định cư phía Đông sông Giô-đanh.

§5:17: Ghi-lê-át Đây là vùng phía Đông sông Giô-đanh.

*5:21: Linh hồn ta … sức mạnh Hay “các con ngựa bạo dạn của Ngài hãy tiến lên.”